Nhịp xoang vành là gì
Tim của người bình thường khỏe mạnh đập đều đặn và nhịp nhàng. Các tế bào cơ tim có các tính chất điện học đặc biệt giúp các xung động được hình thành và dẫn truyền trong cơ tim tạo ra các nhát bóp đồng bộ. Rối loạn hình thành xung động hoặc rối loạn dẫn truyền xung động hoặc cả hai sẽ gây ra các bệnh lý rối loạn nhịp và rối loạn dẫn truyền của tim. Show
Bất kỳ một bất thường nào tại tim bao gồm bất thường cấu trúc bẩm sinh (ví dụ đường dẫn truyền phụ) hoặc bất thường về chức năng (ví dụ bệnh lý kênh ion có tính di truyền) đều có thể gây ra các rối loạn nhịp tim. Các rối loạn ở mức độ toàn thân có thể là nguyên nhân hoặc là yếu tố góp phần gây ra rối loạn nhịp tim bao gồm các bất thường điện giải (đặc biệt là kali hoặc magiê thấp), thiếu oxy, mất cân bằng hoocmon (ví dụ suy giáp, cường giáp), thuốc và chất độc (ví dụ như rượu, caffeine). Giải phẫu của hệ thống dẫn truyền timMột nhóm tế bào ở vị trí nối của tĩnh mạch chủ trên và vùng bên cao của nhĩ phải chịu trách nhiệm hình thành xung động đầu tiên của mỗi nhịp tim bình thường. Nhóm tế bào này được gọi là nút xoang-nhĩ hoặc nút xoang. Xung động điện học được phát đi từ nhóm tế bào giữ vai trò chủ nhịp này sẽ kích thích các vùng tế bào xung quanh, dẫn đến hoạt hóa tiếp các vùng cơ tim kế cận theo một trình tự thống nhất. Các xung động được lan truyền qua tâm nhĩ, tới nút nhĩ thất nhờ các đường liên nút và các mô cơ nhĩ. Nút nhĩ thất nằm ở phía bên phải của vách liên nhĩ. Nút nhĩ thất có đặc tính dẫn truyền chậm và do đó làm giảm tốc độ dẫn truyền xung động từ nhĩ xuống thất. Thời gian dẫn truyền nhĩ thất phụ thuộc vào tần số tim và được điều chỉnh bởi hệ thần kinh tự động và nồng độ catecholamines trong máu nhằm mục đích tối ưu hóa cung lượng tim ở mọi tần số tim. Tâm nhĩ được ngăn cách với tâm thất bởi các vòng van nhĩ thất có cấu tạo là mô sợi, trừ thành trước vách của vòng van. Bó His là cầu trúc nằm ở vùng trước vách của vòng van nhĩ thất, tiếp nhận các xung động từ nút nhĩ thất truyền tới. Bó His đi vào vùng cao nhất của vách liên thất rồi chia ra thành hai nhánh: nhánh phải và nhánh trái. Tận cùng của các nhánh này là mạng Purkinje. Nhánh phải dẫn các xung động tới khử cực vùng nội tâm mạc phía thành trước và phía mỏm thất phải. Nhánh trái của bó His chạy dọc theo bờ trái của vách liên thất và chia thành phân nhánh trái trước và phân nhánh trái sau. Phân nhánh trái trái trước và phân nhánh trái sau hoạt hóa phần vách liên thất bên trái. Đây là vùng cơ tim đầu tiên của tâm thất được khử cực. Như vậy, xung động khử cực sẽ bắt đầu từ phía trái vách liên thất, lan sang bên phải của vách và sau đó tiếp tục khử cực gần như đồng thời hai tâm thất theo chiều từ nội tâm mạc ra thượng tâm mạc. Đường dẫn truyền điện học trong tim
Sinh lý học tim mạchĐể hiểu rõ các rối loạn nhịp tim, chúng ta cần nắm vững cơ chế sinh lý học bình thường của tim. Điện sinh lý học timCác kênh ion đặc biệt trên màng tế bào cơ tim đóng vai trò là các con đường vận chuyển ion qua lại tạo ra hiện tượng khử cực và tái cực tế bào, hình thành nên điện thế hoạt động của tế bào cơ tim. Thời điểm bắt đầu điện thế hoạt động, tế bào cơ tim sẽ được khử cực từ điện thế tâm trương qua màng 90 mV lên tới điện thế 50 mV. Ở trên màng tế bào, có rất nhiều kênh ion mà sự đóng mở phụ thuộc vào điện thế. Ở mức điện thế -50 mV, các kênh Natri nhanh trên màng tế bào sẽ mở ra. Sự chênh lệch nồng độ ion Natri giữa bên ngoài tế bào so với bên trong tế bào làm cho ion Natri vốn có nồng độ cao hơn ở bên ngoài tế bào ở trạng thái nghỉ trước đó sẽ ào vào bên trong tế bào một cách nhanh chóng. Tiếp đến, các kênh Natri nhanh sẽ bị bất hoạt sớm và ngăn dòng ion Natri đổ vào tế bào. Thay vào đó, các kênh ion phụ thuộc thời gian và điện thế khác sẽ mở ra, đưa dòng ion Canxi xâm nhập vào tế bào để tiếp tục khử cực tế bào và đồng thời đưa dòng ion Kali ra khỏi tế bào (tái cực tế bào). Ban đầu, hai quá trình này được cân bằng, duy trì một điện thế hoạt động dương qua màng tế bào và kéo dài giai đoạn cao nguyên của điện thế hoạt động. Trong pha này, ion canxi đi vào tế bào có nhiệm vụ kết nối điện học - cơ học để tạo nhát bóp cơ tim. Cuối cùng, dòng ion Canxi đi vào tế bào ngừng lại và dòng ion Kali đi ra khỏi tế bào tăng lên, tạo ra quá trình tái cực nhanh của tế bào, làm điện thế qua màng trở lại 90 mV lúc nghỉ. Khi tế bào cơ tim đang diễn ra quá trình khử cực, nó sẽ trơ với các xung động kích thích. Ban đầu, trong thời kỳ trơ tuyệt đối của quá trình khử cực, các xung động ngoại lai không thể khử cực được tế bào cơ tim. Sau khi tế bào cơ tim được tái cực một phần (thời kỳ trơ tương đối), các xung động ngoại lai có thể tác động gây khử cực tế bào nhưng quá trình khử cực này chậm. Có hai loại mô cơ tim chính phân loại theo cách đáp ứng điện học:
Mô hoạt hóa nhanh (tế bào cơ nhĩ, cơ thất và hệ thống His-Purkinje) có mật độ cao các kênh Natri nhanh. Điện thế hoạt động của các mô này được đặc trưng bởi:
Mô hoạt hóa chậm (nút xoang và nút nhĩ thất) có mật độ thấp các kênh Natri nhanh. Điện thế hoạt động của các mô này được đặc trưng bởi:
Bình thường, nút xoang có tần số phát xung nhanh nhất (tần số khử cực tự động trong thời kỳ tâm trương nhanh nhất). Do vậy, nút xoang có khả năng hình thành điện thế hoạt động tự nhiên cho tim với tần số cao hơn các mô khác. Vì thế, nút xoang là mô tự động chiếm ưu thế nhất và đóng vai trò chủ nhịp của tim người bình thường. Nếu nút xoang không tạo xung động, mô có tính tự động cao nhất tiếp theo sẽ đóng vai trò chủ nhịp cho tim, thường là nút nhĩ thất. Kích thích giao cảm sẽ làm tăng tần số phát xung của các mô giữ vai trò chủ nhịp. Ngược lại, kích thích phó giao cảm sẽ làm giảm tần số phát xung của các mô này. Nhịp tim bình thườngTần số nhịp xoang khi nghỉ ngơi ở người lớn thông thường là 60 đến 100 nhịp/phút. Tần số tim chậm hơn (nhịp chậm xoang) thường gặp ở người trẻ tuổi, đặc biệt vận động viên Chẩn đoán Tim vận động viên là tình trạng thay đổi đồng nhất về cấu trúc và chức năng ở những người tập luyện > 1 giờ hầu hết các ngày. Những thay đổi này thường không biểu hiện triệu chứng. Khám lâm... đọc thêm , và trong khi ngủ. Tần số tim nhanh hơn (nhịp nhanh xoang) thường gặp khi vận động hoặc khi đang có bệnh lý nào đó. Nhịp nhanh xoang có thể xảy ra khi xúc động mạnh do tác động của thần kinh giao cảm và khi tăng tiết catecholamine trong máu. Thông thường có sự biến thiên tần số tim trong ngày. Tần số tim thường thấp nhất về đêm gần sáng, ngay trước khi bệnh nhân thức dậy buổi sáng. Khi bệnh nhân hít vào, tần số tim có thể tăng nhẹ và khi thở ra, tần số tim có thể giảm nhẹ (thay đổi nhịp xoang do hô hấp). Tần số tim dao động theo sự điều hòa bởi trương lực phó giao cảm - hiện tượng này rất thường gặp ở người bình thường trẻ tuổi. Sự dao động nhịp tim do tác động của hệ thần kinh phế vị này có thể giảm dần khi độ tuổi tăng lên nhưng không hoàn toàn mất hẳn. (ví dụ bệnh đái tháo đường Đái tháo đường (DM) Đái tháo đường (DM) là tình trạng giảm tiết insulin và kháng insulin ngoại vi dẫn đến tăng glucose máu. Triệu chứng sớm liên quan tới tăng glucose máu và bao gồm uống nhiều, khát nhiều, tiểu... đọc thêm nặng) hoặc kèm thèo suy tim Suy tim (HF) Suy tim (HF) là một hội chứng rối loạn chức năng tâm thất. Suy tim trái gây khó thở và mệt mỏi, suy tim phải gây ứ trệ tuần hoàn ngoại biên; các tình trạng suy tim trên có thể tiến triển đồng... đọc thêm nặng. Hầu hết các hoạt động điện học của tim được thể hiện trên điện tâm đồ (xem Hình: Lược đồ của chu chuyển tim mô tả các đường cong áp lực trong buồng tim, tiếng tim, sóng tĩnh mạch cảnh và điện tâm đồ. Lược đồ của chu chuyển tim mô tả các đường cong áp lực trong buồng tim, tiếng tim, sóng tĩnh mạch cảnh và điện tâm đồ. Thông tim là biện pháp luồn một ống thông qua đường động mạch hoặc tĩnh mạch vào tới buồng tim, động mạch phổi, động mạch vành và tĩnh mạch vành. Thông tim có thể được sử dụng để làm các xét... đọc thêm Khoảng PR (từ khi bắt đầu của sóng P tới đầu của phức hợp QRS) là thời gian từ khi bắt đầu hoạt hóa tâm nhĩ đến khi bắt đầu hoạt hóa tâm thất. Phần lớn khoảng thời gian PR này phản ánh quá trình dẫn truyền xung động chậm lại trong nút nhĩ thất. Khoảng RR (thời gian giữa hai phức bộ QRS) biểu thị tần số thất. Khoảng QT (từ khi bắt đầu phức bộ QRS đến khi kết thúc của sóng T) thể hiện thời gian khử cực tâm thất. Giá trị bình thường của khoảng QT hơi dài hơn ở nữ giới và cũng dài hơn khi tần số tim chậm. Khoảng QT được hiệu chỉnh (QTc) để loại trừ ảnh hưởng của tần số tim lên khoảng QT. Công thức phổ biến nhất là (đơn vị của các khoảng đo là giây): Sinh lý bệnhNguyên nhân của rối loạn nhịp bao gồm: rối loạn hình thành xung động hoặc rối loạn dẫn truyền xung động hoặc cả hai. Nguyên nhân của rối loạn nhịp chậm là do các chủ nhịp nội tại bị suy yếu chức năng hoặc do rối loạn dẫn truyền, chủ yếu trong nút nhĩ thất hoặc hệ thống His-Purkinje. Hầu hết các rối loạn nhịp nhanh do cơ chế vòng vào lại. Một số rối loạn nhịp nhanh do cơ chế tăng tính tự động hoặc do rối loạn tính tự động. Vòng vào lại là vòng tròn hoạt hóa điện học giữa hai con đường dẫn truyền có đặc điểm dẫn truyền và thời gian trơ khác nhau. (xem Hình: Cơ chế vòng vào lại điển hình. Cơ chế vòng vào lại điển hình. Tim của người bình thường khỏe mạnh đập đều đặn và nhịp nhàng. Các tế bào cơ tim có các tính chất điện học đặc biệt giúp các xung động được hình thành và dẫn truyền trong cơ tim tạo ra các nhát... đọc thêm Cơ chế vòng vào lại điển hình.
Cơ chế khởi phát cơn nhịp nhanh do vòng vào lại tại nút nhĩ thất.
Trong những điều kiện nhất định, cơ chế vào lại sẽ hình thành một vòng tròn hoạt hóa điện học liên tục, tạo ra cơn tim nhanh. xem Hình: Cơ chế khởi phát cơn nhịp nhanh do vòng vào lại tại nút nhĩ thất. Cơ chế khởi phát cơn nhịp nhanh do vòng vào lại tại nút nhĩ thất. Tim của người bình thường khỏe mạnh đập đều đặn và nhịp nhàng. Các tế bào cơ tim có các tính chất điện học đặc biệt giúp các xung động được hình thành và dẫn truyền trong cơ tim tạo ra các nhát... đọc thêm
Triệu chứng cơ năng và thực thểRối loạn nhịp và rối loạn dẫn truyền có thể không triệu chứng hoặc có thể gây ra triệu chứng đánh trống ngực Hồi hộp trống ngực Đánh trống ngực là cảm giác của cơ thể về nhịp tim. Chúng thường được mô tả là cảm giác hồi hộp, tim đập nhanh hoặc cảm giác bỏ nhịp. Đây là những biểu hiện phổ biến, một số bệnh nhân cảm... đọc thêm (cảm giác tim bỏ nhịp hoặc có nhát đập nhanh hoặc mạnh bất thường). Ngoài ra có thể có các triệu chứng do rối loạn huyết động (khó thở, tức ngực, thoáng ngất hoặc ngất) hoặc ngừng tim. Đôi khi, bệnh nhân có thể có triệu chứng tiểu nhiều do tăng tiết peptide lợi niệu nhĩ khi có cơn tim nhanh trên thất kéo dài. Có thể xác định tần số thất và nhịp đều hay không đều bằng cách bắt mạch hoặc nghe tim. Việc khám tĩnh mạch cảnh có thể giúp chẩn đoán blốc nhĩ thất hoặc rối loạn nhịp nhanh. Ví dụ, hiện tượng sóng a đại bác quan sát được trên đồ thị tĩnh mạch cảnh Tĩnh mạch cảnh (Xem thêm chương Giới thiệu phương pháp tiếp cận bệnh nhân tim mạch và Nghe tim.) Việc thăm khám đầy đủ các cơ quan rất quan trọng để phát hiện các ảnh hưởng lên ngoại vi và toàn thân của bệnh... đọc thêm Chẩn đoán
Việc khai thác bệnh sử và khám thực thể có thể giúp chẩn đoán và phát hiện rối loạn nhịp, nhưng ĐTĐ 12 chuyển đạo Điện tâm đồ Điện tâm đồ thường quy cung cấp 12 góc nhìn khác nhau xung quanh quả tim nhờ cách bố trí 12 điện cực tạo ra 12 vector khác nhau quanh tim. Các vector này phản ánh sự chênh lệch điện thế giữa... đọc thêm rất cần thiết để chẩn đoán xác định. Khi không có ĐTĐ thường quy, nếu ta ghi được một đoạn ĐTĐ kéo dài trên máy theo dõi ngay trong cơn thì nó cũng có thể giúp ta chẩn đoán cơn rối loạn nhịp, mặc dù đôi khi có thể không tin cậy bằng ĐTĐ 12 chuyển đạo. ĐTĐ cần được làm một cách hệ thống và cần đo đạc tỉ mỉ các khoảng thời gian giữa các sóng và cố gắng phát hiện các thay đổi kín đáo. Một số điểm mấu chốt phục vụ cho chẩn đoán là:
Khi tần số khử cực (của nhĩ hoặc thất) không đều, ta cần xem xét kỹ xem sự không đều này có tính chu kỳ hay hoàn toàn không đều. Nhịp không đều nhưng có tính chu kỳ có thể gặp trong trường hợp trên cơ sở nhịp cơ bản đều, thỉnh thoảng có nhát không đều xuất hiện cách hồi (ví dụ ngoại tâm thu) hoặc một chùm nhịp không đều xuất hiện có tính lặp đi lặp lại. Nhịp nhanh có phức bộ QRS hẹp (< 0,12 giây) gợi ý nguồn gốc từ trên thất (trên chỗ chia nhánh bó His). Nhịp nhanh có phức bộ QRS rộng ( 0,12 giây) gợi ý nguồn gốc từ thất (dưới chỗ chia nhánh bó His) hoặc có thể là nhịp nhanh trên thất kèm dẫn truyền lệch hướng trong thất hoặc trong do tiền kích thích trong Hội chứng Wolff-Parkinson-White Rung nhĩ và Hội Chứng Wolff-Parkinson-White (WPW) Khi rung nhĩ xuất hiện trên nền hội chứng Wolff-Parkinson-White, các xung động từ nhĩ sẽ dẫn truyền xuôi rất nhanh qua đường dẫn truyền phụ dẫn đến đáp ứng thất rất nhanh, có thể gây ra rối... đọc thêm . Rối loạn nhịp chậmChẩn đoán ĐTĐ rối loạn nhịp chậm dựa vào sự có mặt hoặc không có mặt sóng P, hình thái sóng P, mối quan hệ giữa P và phức bộ QRS. Đặc điểm ĐTĐ của Blốc nhĩ thất hoàn toàn là có nhiều P hơn QRS, không có mối liên hệ gì giữa P và QRS; phức bộ QRS có bản chất là nhịp thoát bộ nối với dẫn truyền xuống thất bình thường (QRS thanh mảnh) hoặc nhịp thoát bộ nối với dẫn truyền lệch hướng (QRS rộng) hoặc nhịp thoát thất (QRS rộng). Đặc điểm ĐTĐ nhịp chậm mà không có hiện tượng Block nhĩ thất là tần số thất đều và chậm, tỷ lệ giữa P và QRS là 1:1. Nhịp chậm xoang có đặc điểm là luôn có P đi trước QRS với hình thái sóng P bình thường của nhịp xoang. Có lúc có thể gặp khoảng ngừng xoang với một nhịp thoát từ nhĩ (sóng P' có hình thái khác sóng P cơ bản). Nếu thấy sóng P đi sau QRS thì đây là nhịp thoát bộ nối hoặc nhịp thoát thất và sóng P là do khử cực ngược lên nhĩ. Nhip thoát thất luôn có QRS giãn rộng. Nhịp thoát bộ nối thường có QRS thanh mảnh; đôi khi có QRS giãn rộng nếu kèm theo block nhánh hoặc tiền kích thích). Khi có Block nhĩ thất cấp 2 Block nhĩ thất cấp II Block nhĩ thất là tình trạng gián đoạn một phần hoặc hoàn toàn xung động dẫn truyền từ tâm nhĩ xuống tâm thất. Nguyên nhân phổ biến nhất là sự xơ hóa và thoái hóa tự nhiên của đường dẫn truyền... đọc thêm Khi thấy những khoảng ngừng dài trên cơ sở QRS đều, có thể do ngoại tâm thu nhĩ bị block (thấy sóng P' theo sát sau sóng T hoặc làm biến dạng sóng T của phức bộ trước đó); do khoảng ngừng xoang dài; do block xoang nhĩ Hôi chứng suy nút xoang do nhiều nguyên nhân khác nhau, dẫn tới tần số nhĩ không phù hợp với nhu cầu sinh lý của cơ thể. Các triệu chứng có thể là tối thiểu hoặc biểu hiện... đọc thêm ; hoặc có thể do block nhĩ thất cấp 2. Rối loạn nhịp nhanhRối loạn nhịp nhanh có thể chia làm 4 nhóm dựa trên tính chất của phức bộ QRS:
Tim nhanh QRS thanh mảnh và không đều bao gồm 4 loại rối loạn nhịp sau: Chẩn đoán phân biệt dựa vào hoạt động của sóng nhĩ, thường nhìn thấy rõ nhất ở giữa những khoảng QRS dài.
Nhịp nhanh với QRS giãn rộng, không đều bao gồm:
Chẩn đoán phân biệt dựa vào sóng nhĩ. Ngoài ra, nhịp nhanh thất đa hình thái thường có tần số rất nhanh (> 250 lần/phút). Nhịp nhanh với QRS thanh mảnh và đều bao gồm:
Nghiệm pháp cường phế vị hoặc các thuốc tác động lên nút nhĩ thất có thể giúp chẩn đoán phân biệt các dạng nhịp nhanh trên thất này. Nếu là nhịp nhanh xoang, các nghiệm pháp này sẽ không làm cắt cơn nhưng có thể làm chậm tần số hoặc làm chậm trễ dẫn truyền nhĩ thất, tạo điều kiện lộ sóng P ra cho ta nhìn thấy. Tương tự như vậy, nếu là nhịp nhanh nhĩ hoặc cuồng nhĩ, các nghiệm pháp này có thể làm chậm dẫn truyền nhĩ thất và từ đó làm lộ sóng cuồng nhĩ hoặc sóng P' của nhịp nhanh nhĩ. Nếu là các dạng nhịp nhanh kịch phát trên thất thường gặp (vào lại nút hoặc vào lại nhĩ-thất), các nghiệm pháp này có thể cắt được cơn tim nhanh. Nhịp nhanh với QRS giãn rộng và đều bao gồm:
Các nghiệm pháp cường phế vị có thể giúp phân biệt giữa các loại nhịp nhanh này. Việc phải phân biệt giữa tim nhanh thất và tim nhanh trên thất dẫn truyền lệch hướng khá thường gặp. Khi đó ta thường dựa vào các tiêu chuẩn điện tâm đồ (xem Hình: Tiêu chuẩn Brugada sửa đổi trong chẩn đoán nhịp nhanh thất. Tiêu chuẩn Brugada sửa đổi trong chẩn đoán nhịp nhanh thất. Tim của người bình thường khỏe mạnh đập đều đặn và nhịp nhàng. Các tế bào cơ tim có các tính chất điện học đặc biệt giúp các xung động được hình thành và dẫn truyền trong cơ tim tạo ra các nhát... đọc thêm Một số điểm quan trọng và những nhầm lẫn có thể gặp
Tiêu chuẩn Brugada sửa đổi trong chẩn đoán nhịp nhanh thất.
Điều trị
Cách thức điều trị phụ thuộc vào từng cá thể, dựa trên mức độ triệu chứng hoặc nguy cơ của rối loạn nhịp. Rối loạn nhịp không triệu chứng và không có nguy cơ cao thì không cần điều trị ngay cả khi có tiến triển xấu hơn. Rối loạn nhịp có triệu chứng thì cần điều trị để cải thiện chất lượng cuộc sống. Các rối loạn nhịp đe dọa đến tính mạng cần được điều trị. Phương thức điều trị cần tập trung vào xử trí nguyên nhân. Trong trường hợp cần thiết, cần áp dụng một hoặc nhiều phương pháp xử trí chống loạn nhịp đồng thời, bao gồm thuốc chống loạn nhịp Thuốc chống loạn nhịp tim (Xem thêm Tổng quan về rối loạn nhịp tim.) Chỉ định điều trị rối loạn nhịp tim phụ thuộc vào triệu chứng và mức độ nghiêm trọng của rối loạn nhịp tim. Điều trị tập trung vào nguyên nhân gây... đọc thêm , sốc điện chuyển nhịp hoặc phá rung Shock điện chuyển nhịp - phá rung (Xem thêm Tổng quan về loạn nhịp tim.) Chị định điều trị rối loạn nhịp tim tùy thuộc vào mức độ triệu chứng và mức độ nghiêm trọng của loạn nhịp. Điều trị tập trung vào nguyên nhân. Trong trường... đọc thêm , máy chuyển nhịp - phá rung tự động Máy chuyển nhịp - phá rung tự động (Implantable Cardioverter-Defibrillators - ICD) (Xem thêm Tổng quan về rối loạn nhịp tim.) Chỉ định điều trị rối loạn nhịp tùy thuộc vào triệu chứng và mức độ nghiêm trọng của loạn nhịp tim. Điều trị tập trung vào nguyên nhân gây ra rối loạn... đọc thêm (ICDs), máy tạo nhịp tim Máy tạo nhịp tim (Xem thêm Tổng quan về loạn nhịp tim.) Chỉ định điều trị loạn nhịp tim phụ thuộc vào mức độ triệu chứng và mức độ nghiêm trọng của loạn nhịp tim. Điều trị tập trung vào nguyên nhân gây rối loạn... đọc thêm Phẫu thuật điều trị rối loạn nhịp timVới sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật triệt đốt rối loạn nhịp qua đường ống thông Triệt đốt rối loạn nhịp tim. (Xem thêm Tổng quan về loạn nhịp tim.) Chỉ định điều trị rối loạn nhịp tim tùy thuộc vào triệu chứng và mức độ nghiêm trọng của loạn nhịp tim. Điều trị cần tập trung và tìm và xử lý nguyên nhân... đọc thêm ít xâm lấn hơn, phương pháp phẫu thuật để cắt bỏ cơ chất gây loạn nhịp đã trở nên ít được sử dụng. Tuy nhiên, phẫu thuật vẫn được chỉ định khi phương pháp triệt đốt qua đường ống thông thất bại hoặc bệnh nhân có những tổn thương tim khác kèm theo cần phẫu thuật. Thường gặp nhất là trường hợp bị bệnh van tim và có rung nhĩ kèm theo hoặc trường hợp bệnh nhân có phình vách thất do nhồi máu cơ tim gây nhịp nhanh thất, cần mổ bắc cầu động mạch vành hoặc cắt bỏ phần cơ tim tổn thương gây rối loạn nhịp. |