Pháp luật về thương mại quy định như thế nào về buộc thực hiện hợp đồng

Liên hệ luật sư Tranh tụng Thương mại

Pháp luật về thương mại quy định như thế nào về buộc thực hiện hợp đồng

Các thương nhân thỏa thuận giao kết hợp đồng thương mại để làm căn cứ cho các hoạt động thương mại, mua bán hàng hóa của mình. Nhưng bên cạnh đó, có nhiều thương nhân chưa hiểu rõ về Luật thương mại hiện hành nên vô tình thực hiện các hành vi vi phạm hợp đồng và gánh chịu nhiều thiệt hại không mong muốn.

Luật Thương mại là gì?

Luật Thương mại 2005 điều chỉnh mọi hoạt động thương mại diễn ra trên lãnh thổ nước Việt Nam, các hoạt động thương mại ngoài Việt Nam nhưng luật áp dụng là Luật này, và các hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi với một bên là thương nhân mà luật áp dụng là Luật này.

Giải đáp Một số Câu hỏi về Luật thương mại 2021 Mới nhất

Chủ thể của Luật thương mại là gì?

Chủ thể được quy định trong Luật thương mại 2005 bao gồm:

  • Thương nhân hoạt động thương mại theo quy định tại Điều 1 Luật Thương mại 2005;
  • Tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại;
  • Cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh.

Các loại chủ thể của Luật Thương mại 2005

Căn cứ vào vai trò, vị trí, chức năng hoạt động và mức độ tham gia vào các mối quan hệ thương mại của chủ thể mà Luật Thương mại 2005 đã phân thành 02 loại sau:

  • Chủ thể chính là các thương nhân. Chủ thể này thường xuyên tham gia vào các mối quan hệ thương mại được quy định trong Luật thương mại hiện hành; và
  • Các chủ thể khác bao gồm tổ chức, cá nhân không có đăng ký kinh doanh; các cơ quan quản lý của nhà nước về kinh tế thực hiện tổ chức quản lý và chỉ đạo các thương nhận trong tất cả hoạt động kinh doanh thương mại như: Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND, các sở, phòng, ban…; tổ chức, cá nhân thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp thương mại của thương nhân.

Việc kéo dài thời hạn, từ chối thực hiện hợp đồng trong trường hợp bất khả kháng được pháp luật thương mại quy định như thế nào?

Luật Thương mại 2005 đã quy định như sau:

Trong trường hợp bất khả kháng, các bên quan hệ thương mại có thể thỏa thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đã ký kết. Nếu các bên không thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện hợp đồng sẽ được thêm một khoản thời gian cụ thể để khắc phục hậu quả, nhưng không được vượt quá các mốc thời hạn dưới đây:

  • Thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ, hàng hóa không quá 12 tháng kể từ khi giao kết hợp đồng;
  • Cung ứng dịch vụ, thời hạn giao hàng được thỏa thuận trên 12 tháng không vượt quá 08 tháng kể từ khi giao kết hợp đồng.

Trường hợp kéo dài quá các thời hạn trên, các bên có quyền từ chối thực hiện hợp đồng, không bên nào gửi đơn kiện yêu cầu bên còn lại bồi thường thiệt hại.

Trường hợp từ chối thực hiện hợp đồng, quy định thời hạn kéo dài không quá 10 ngày, thời hạn được tính từ ngày kết thúc thời hạn trên. Đồng thời, bên từ chối phải thông báo trước cho bên còn lại trước thời điểm bên kia bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng.

Việc kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng không được áp dụng đối với các hợp đồng cung ứng dịch vụ có thời hạn cố định về thời gian hoàn thành dịch vụ; hoặc hợp đồng mua bán hàng hóa có thời hạn cố định về thời gian giao hàng.

Pháp luật về thương mại quy định như thế nào về buộc thực hiện đúng hợp đồng?

Căn cứ vào Điều 297 Luật Thương mại 2005, bên nào vi phạm hợp đồng phải tiếp tục thực hiện theo đúng hợp đồng đã giao kết hoặc thực hiện các biện pháp khác để đảm bảo hợp đồng vẫn được thực hiện, đồng thời chịu các chi phí phát sinh.

Nội dung của chế tài buộc thực hiện theo đúng hợp đồng cụ thể như sau:

  • Nếu bên vi phạm hợp đồng là bên bán, cung ứng dịch vụ nhưng giao thiếu hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng thì bắt buộc phải cung ứng đầy đủ theo số lượng đã ký kết hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm giao hàng hóa, cung ứng dịch vụ kém chất lượng thì phải loại trừ khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng;
  • Trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện như trên này thì bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của một bên khác để thay thế theo đúng loại hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải trả khoản tiền chênh lệch và các chi phí liên quan nếu có; có quyền tự sửa chữa khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ và bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý;
  • Bên vi phạm hợp đồng là bên mua, thì bên bán có quyền yêu cầu nhận hàng, trả tiền hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác (đã quy định trong hợp đồng) và áp dụng theo luật thương mại Việt Nam hiện hành.

Nếu có vi phạm, các bên có thể thỏa thuận về việc dùng tiền để bồi thường; hoặc gia hạn thêm một khoảng thời gian phù hợp để bên vi phạm có thể thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo. Trong thời gian thực hiện chế tài phải thực hiện đúng các vi phạm ấn định; nếu không thỏa thuận được, bên bị vi phạm không được áp dụng các hình thức chế tác khác ngoài phạt vi phạm hay bồi thường thiệt hại.

Khi nào áp dụng Luật Thương mại 2005?

Luật Thương mại 2005 sẽ được áp dụng chính trong 02 trường hợp sau:

Thứ nhất, áp dụng đối với các hoạt động kinh doanh thương mại thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam; và

Thứ hai, hoạt động thương mại thực hiện ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp các bên thỏa thuận chọn áp dụng Luật này hoặc luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng Luật này.

Tuy nhiên, căn cứ vào Điều 5.2 Luật Thương mại 2005, đối với những giao dịch mang yếu tố nước ngoài thì các bên có thể thỏa thuận trong việc áp dụng pháp luật thương mại, tập quán thương mại quốc tế nếu chúng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Nếu các bên đồng ý với lựa chọn này thì Luật thương mại sẽ không được áp dụng.

Bài viết này chứa đựng kiến thức pháp luật và thuật ngữ chuyên môn, quý độc giả có thắc mắc hoặc cần trao đổi về chuyên môn liên quan đến pháp luật thương mại Việt Nam, vui lòng liên hệ các Luật sư Thương mại của chúng tôi tại .

Trong quan hệ giữa các thương nhân, pháp luật thương mại ra đời là cần thiết để duy trì và bảo đảm sự bình đẳng cho các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Khi một hợp đồng thương mại đã được giao kết hợp pháp và phát sinh hiệu lực pháp luật thì các bên phải thực hiện các nghĩa vụ mà mình đã thỏa thuận trong hợp đồng. Việc vi phạm các nghĩa vụ trong hợp đồng dẫn đến hậu quả bên vi phạm phải chịu các hình thức trách nhiệm – chế tài. Trong đó có chế tài buộc thực hiện hợp đồng. Vậy bản chất của chế tài buộc thực hiện hợp đồng là gì? Các quy định của pháp luật về chế tài này như thế nào?…. Hãy cùng Luật sư X tìm hiểu ngay trong nội dung bài viết dưới đây nhé!

Căn cứ pháp luật.

  • Luật Thương mại năm 2005;
  • Các văn bản hướng dẫn.

Nội dung tư vấn.

Chế tài trong thương mại là các biện pháp tác động bất lợi về tài sản của bên có quyền lợi bị vi phạm đối với chủ thể có hành vi vi phạm cam kết hợp đồng trong thương mại. Nếu một bên vi phạm hợp đồng thì phải gánh chịu những hậu quả pháp lí (bất lợi) nhất định do hành vi vi phạm đó gây ra.

Đây là khái niệm chế tài được hiểu theo Luật Thương mại năm 2005, chế tài chỉ bao gồm các chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại mà bên bị vi phạm có quyền được lựa chọn áp dụng hoặc yêu cầu áp dụng chế tài.

Chế tài trong thương mại gồm:

  • Buộc thực hiện đúng hợp đồng;
  • Phạt vi phạm;
  • Buộc bồi thường thiệt hại;
  • Tạm ngừng thực hiện hợp đồng;
  • Đình chỉ thực hiện hợp đồng;
  • Hủy bỏ hợp đồng;
  • Các biện pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế.

Dù là chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng hay chế tài phạt vi phạm hay buộc bồi thường thiệt hại,… thì các chế tài trong thương mại đều có các đặc điểm chung sau đây:

  • Về chủ thể áp dụng và bị áp dụng chế tài: các bên trong hợp đồng mà không phải bất kỳ bên thứ ba nào;
  • Điều kiện áp dụng chế tài: phải có hành vi vi phạm hợp đồng. Vi phạm hợp đồng là hành vi có lỗi của một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận với nhau. Vi phạm hợp đồng có thể xảy ra đối với bất kỳ một nghĩa vụ nào và được thể hiện dưới các dạng như thực hiện chậm, thực hiện một phần hoặc không thực hiện toàn bộ;
  • Số lượng chế tài: có thể áp dụng một lúc nhiều loại chế tài khác nhau.

Việc quy định các chế tài trong thương mại nhằm đảm bảo cho hợp đồng đã được giao kết được bảo đảm thực hiện, bảo vệ quyền và lợi ích của bên bị xâm phạm, hạn chế những tranh chấp xảy ra. Đồng thời cũng chính là phương thức để các bên có thể áp dụng để xử lý vi phạm khi có hành vi vi phạm.

Định nghĩa về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được quy định tại khoản 1 Điều 297 Luật Thương mại năm 2005 như sau:

Điều 297. Buộc thực hiện đúng hợp đồng

1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh.

Theo đó buộc thực hiện hợp đồng là một chế tài trong thương mại, khi có hành vi vi phạm thì bên vi phạm được quyền yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng nội dung đã thỏa thuận trong hợp đồng hoặc có thể dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện. Chi phí thực hiện hợp đồng trong trường hợp này sẽ do bên vi phạm phải chịu do nguyên nhân xuất phát từ bên vi phạm.

Nội dung của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được quy định tại khoản 2, 3, 4, 5 Luật Thương mại năm 2005 cụ thể:

Điều 297. Buộc thực hiện đúng hợp đồng

2. Trường hợp bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thoả thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm giao hàng hoá, cung ứng dịch vụ kém chất lượng thì phải loại trừ khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Bên vi phạm không được dùng tiền hoặc hàng khác chủng loại, loại dịch vụ khác để thay thế nếu không được sự chấp thuận của bên bị vi phạm.

3. Trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều này thì bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác để thay thế theo đúng loại hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải trả khoản tiền chênh lệch và các chi phí liên quan nếu có; có quyền tự sửa chữa khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ và bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý.

4. Bên bị vi phạm phải nhận hàng, nhận dịch vụ và thanh toán tiền hàng, thù lao dịch vụ, nếu bên vi phạm đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo quy định tại khoản 2 Điều này.

5. Trường hợp bên vi phạm là bên mua thì bên bán có quyền yêu cầu bên mua trả tiền, nhận hàng hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác của bên mua được quy định trong hợp đồng và trong Luật này.

Như vậy khi có sự vi phạm và hợp đồng không được thực hiện theo đúng thỏa thuận thì chế tài mà các bên áp dụng đầu tiên là buộc thực hiện đúng hợp đồng. Trước tiên bên vi phạm sẽ tiếp tục thực hiện giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu giao hàng hóa cung ứng dịch vụ không đảm bảo chất lượng thì phải loại trừ đi khuyết tật, thiếu sót đó. Bên vi phạm chỉ được phép thay thế bằng hàng hóa, dịch vụ khác thay thế cho hàng hóa, dịch vụ ban đầu nếu được sự đồng ý của bên bị vi phạm. Nếu như bên vi phạm không thể khắc phục bằng việc giao tiếp hàng hóa, cung ứng dịch vụ thì bên bị vi phạm được quyền sử dụng hàng hóa, dịch vụ của người khác thay thế để đảm bảo quyền lợi của mình, thực hiện hoạt động kinh doanh bình thường. Trên thực tế cũng có trường hợp bên bị vi phạm không nhận hàng khi bên vi phạm đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quy định vì vậy pháp luật quy định nghĩa vụ phải nhận hàng, dịch vụ và thanh toán của bên bị vi phạm. Việc quy định này nhằm hạn chế tổn thất do có hành vi vi phạm gây ra cho các bên, tạo điều kiện hợp tác kinh doanh cho cả hai bên.

Đối chiếu với các loại chế tài khác thì có thể thấy rằng đây là chế tài “nhẹ nhàng” nhất so với các chế tài còn lại. Chỉ cần các bên tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng thì các bên vẫn tiếp tục mối quan hệ kinh doanh, những khoản phí phải bỏ ra so với bồi thường thiệt hại hay vi phạm hợp đồng nhỏ hơn rất nhiều.

Vai trò của chế tài trong thương mại được thể hiện rõ rệt thông qua hai chức năng cơ bản, đó là chức năng ngăn ngừa và hạn chế vi phạm hợp đồng và chức năng bù đắp tổn thất do hành vi vi phạm gây ra.

Đối với chức năng ngăn ngừa và hạn chế vi phạm hợp đồng: bởi vì khi giao kết hợp đồng nguyện vọng của các bên là đạt được lợi ích tối đa cho việc giao kết. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp việc thực hiện hợp đồng đều có thể diễn ra suôn sẻ, tích cực cho đến khi thanh lý hợp đồng. Do vậy việc dự liệu các tình huống có thể xảy ra, thỏa thuận về các biện pháp xử lý vi phạm giúp các bên đề cao tinh thần hợp tác vừa ngăn ngừa, hạn chế được những xâm phạm. Chế tài do vi phạm hợp đồng được đặt ra là cần thiết để duy trì và đảm bảo sự bình đẳng cho các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng vừa đảm bảo thực hiện kỷ luật hợp đồng.

Đối với chức năng bù đắp tổn thất do hành vi vi phạm gây ra: việc quy định các chế tài không chỉ bảo vệ quyền lợi cho chính các bên, đảm bảo cam kết giữa các bên được thực hiện mà còn nhằm đền bù lại những tổn thất về tài sản, tinh thần cho bên bị xâm phạm bởi hành vi của bên vi phạm hợp đồng gây ra. Qua đó nhằm giáo dục các bên tham gia hợp đồng tuân thủ pháp luật và nghĩa vụ đã cam kết đảm bảo hợp tác, bình đẳng cùng có lợi. Việc đặt ra các chế tài nhằm tạo ra môi trường pháp lý công bằng, thuận lợi để các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh hiệu quả, thuận lợi vì mục tiêu phát triển xã hội.

Mặc dù chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng đã phát huy được nhiều mặt tích cực song bên cạnh đó vẫn tồn tại những hạn chế nhất định, cụ thể:

Thứ nhất, về khái niệm hình thức chế tài “Buộc thực hiện đúng hợp đồng”:

Một phần trong định nghĩa về hình thức buộc thực hiện đúng hợp đồng thể hiện tính không khả thi, cụ thể là cụm từ “thực hiện đúng hợp đồng” là khó có thể thực hiện đặc biệt là trường hợp vi phạm hợp đồng về mặt thời hạn.

Chẳng hạn, trong hợp đồng có thỏa thuận thời gian giao hàng vào 8h sáng ngày 01/01/2016, thì khi đã có hành vi vi phạm hợp đồng về mặt thời hạn thì hợp đồng đó không thể “thực hiện đúng hợp đồng”được nữa vì các bên không thể quay ngược thời gian vào thời điểm thỏa thuận trong hợp đồng để thực hiện đúng hợp đồng.

Do đó theo quan điểm của các Luật sư, chuyên gia trong lĩnh vực pháp lý cho rằng cần xây dựng khái niệm về hình thức chế tài này theo hướng “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh”.

Thứ hai, về nội dung của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thương mại:

Khoản 2 Điều 297 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn mà bên bị vi phạm ấn định, bên bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình”.

Quy định như vậy đã làm cho chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trở thành vô giá trị, bởi vì ngay cả trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài này thì cũng không chịu bất kì trách nhiệm bổ sung nào mà chỉ chịu các hình thức chế tài như phạt hợp đồng, bồi thường thiệt hại hoặc tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng. Quy định này đã biến hình thức chế tài “buộc thực hiện đúng hợp đồng” thành kẽ hở rất lớn để lợi dụng nhằm trì hoãn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.

Do đó để khắc phục tình trạng này cần có quy định bổ sung các hình thức chế tài đã nêu ở trên để áp dụng khi bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng để tăng cường trách nhiệm của bên vi phạm.

Hy vọng bài viết hữu ích với bạn đọc!

Để biết thêm thông tin chi tiết, tham khảo thêm dịch vụ tư vấn của Luật sư X hãy liên hệ 0833.102.102

Điều kiện áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng?

Theo quy định luật thương mại 2005, chỉ cần có vi phạm nghĩa vụ hợp đồng bên bị vi phạm có quyền áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng.

Có được đồng thời áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng với phạt vi phạm?

Căn cứ khoản 1 điều 299 luật thương mại 2005 trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng, bên bị vi phạm có thể đồng thời phạt vi phạm nếu hợp đồng có thỏa thuận phạt vi phạm.

Có được đồng thời áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng với chế tài buộc bồi thường thiệt hại?

Căn cứ khoản 1 điều 299 luật thương mại 2005 trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng, bên bị vi phạm có thể yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại nếu có thiệt hại xảy ra

Trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng có được hủy hợp đồng?

Căn cứ điều 299 luật thương mại 2005, trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng ngoài việc có thể đồng thời áp dụng chế tài phạt vi phạm, yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nếu các bên có thỏa thuận cụ thể thì bên bị vi phạm có thể hủy hợp đồng.