Quyền công dân có tính giai cấp không tại sao

Sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính dân tộc trong văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cần được quán triệt không chỉ về mặt nhận thức mà cả về mặt hành động nhằm xây dựng một trình độ văn hóa chính trị cao. Vì vậy, việc nghiên cứu sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính dân tộc trong văn hóa chính trị Việt Nam thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vô cùng cần thiết nhằm thực hiện tốt chủ trương xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự là của dân, do dân và vì dân.

Quyền công dân có tính giai cấp không tại sao
 

Văn hóa chính trị và sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính dân tộc trong văn hóa chính trị

Văn hóa chính trị là một phương diện của văn hóa, ở đó kết tinh toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần của đời sống chính trị, phản ánh trình độ tri thức, phẩm chất chính trị, năng lực hoạt động chính trị, phương thức hoạt động chính trị của các thể chế chính trị và chủ thể chính trị. Đặc trưng cốt lõi của văn hóa chính trị là được xây dựng trên cơ sở của hệ giá trị đúng đắn, khoa học và dân chủ; thực hiện lợi ích của giai cấp, dân tộc, quốc gia phù hợp với tiến bộ xã hội.

Văn hóa chính trị chứa đựng những giá trị tốt đẹp thể hiện trình độ văn minh, tiến bộ, giàu tính nhân văn, nhân đạo; phù hợp với những chuẩn mực đạo đức, quy định của pháp luật; tôn trọng đạo lý và chân lý. Văn hóa chính trị là sản phẩm sáng tạo của con người nhưng là con người chính trị - con người của giai cấp, lực lượng xã hội, quốc gia và dân tộc. Văn hóa chính trị được biểu hiện trên hai cấp độ: cá nhân và xã hội.

Ở cấp độ cá nhân, văn hóa chính trị công dân, thể hiện sự giác ngộ về lợi ích của giai cấp, lực lượng xã hội, quốc gia, dân tộc mình; sự tin tưởng, mong muốn cống hiến, đấu tranh cho lợi ích đó; từ đó phản ánh trình độ chính trị, phẩm chất chính trị, năng lực hoạt động chính trị và ảnh hưởng xã hội của công dân đó tới đời sống chính trị.

Ở cấp độ xã hội, trước hết biểu hiện phẩm chất chính trị, năng lực hoạt động chính trị và ảnh hưởng xã hội của một chính đảng, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội - văn hóa chính trị cầm quyền. Văn hóa chính trị ở cấp độ xã hội còn biểu hiện phẩm chất chính trị, năng lực hoạt động chính trị và ảnh hưởng xã hội của một giai cấp, lực lượng xã hội, quốc gia, dân tộc - văn hóa chính trị cộng đồng.

Văn hóa chính trị là một phạm trù kép, vừa là phạm trù của văn hóa vừa là phạm trù của chính trị, thể hiện trình độ chính trị, năng lực giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Trong xã hội có giai cấp, quyền lực chính trị nằm trong tay ai, phục vụ lợi ích giai cấp nào, với phương thức thực thi quyền lực ra sao sẽ quy định nội dung của văn hóa chính trị như thế ấy. Đó chính là tính giai cấp của văn hóa chính trị. Tuy nhiên, văn hóa chính trị còn hướng tới những giá trị tốt đẹp, tích cực và tiến bộ mang tính phổ quát của toàn xã hội, phản ánh xu thế phát triển chung của xã hội và dân tộc. Trong văn hóa chính trị bao hàm những giá trị chính trị, đạo đức, pháp luật tiến bộ, không chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền mà còn bảo vệ lợi ích của xã hội và dân tộc.

Ngày nay, văn hóa chính trị trở thành chuẩn mực định hướng sự vận động đời sống chính trị; phản ánh trình độ, năng lực ứng xử, xử lý các mối quan hệ chính trị trong phạm vi quốc gia cũng như phạm vi quốc tế. Chính sách đối nội và đối ngoại của các quốc gia trên thế giới hầu hết hướng tới giải quyết hài hòa lợi ích giai cấp cầm quyền với lợi ích của dân tộc. Các thể chế chính trị lựa chọn mục tiêu chính trị theo hướng nhân văn, tiến bộ, chống lại mục tiêu chính trị phản nhân văn, phản tiến bộ; xây dựng hệ thống chính trị, thiết chế chính trị vận hành khoa học, hiện đại, trong sạch với phương thức tổ chức và ứng xử chính trị phù hợp tiến bộ xã hội, tôn trọng đạo lý, thực hành dân chủ. Đó được coi là cách ứng xử phổ biến trên thế giới hiện nay và cũng là tiêu chí để đánh giá sự vận hành và phát triển của các nền chính trị quốc gia; nó phản ánh sự thống nhất giữa tính giai cấp với tính dân tộc trong đời sống chính trị, tạo nên một diện mạo mới của văn hóa chính trị trong thời đại mới.

Căn nguyên xâu sa của sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính dân tộc trong văn hóa chính trị là vấn đề lợi ích: lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Khi nào có sự thống nhất giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc thì chính trị ổn định; ngược lại, khi không thống nhất thì chính trị bất ổn đồng thời phản ánh trình độ văn hóa chính trị thấp, phản tiến bộ. Một xu hướng tất yếu của các thể chế chính trị trên thế giới là hướng tới xây dựng một nền chính trị ổn định trên cơ sở bảo đảm vai trò lãnh đạo của giai cấp cầm quyền đồng thời bảo đảm sự phát triển của xã hội, dân tộc trên mọi phương thức tồn tại của hoạt động chính trị.

Sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính dân tộc trong văn hóa chính trị Việt Nam

Văn hóa chính trị Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân dựa trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Văn hóa chính trị Việt Nam dựa trên lý tưởng chính trị cao đẹp, tiến bộ, là xây dựng chủ nghĩa xã hội, hướng tới mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Đây chính là nền tảng cho việc thống nhất tính giai cấp với tính dân tộc bởi lợi ích giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam là thống nhất trên những lợi ích cơ bản. Lịch sử hào hùng giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ đầu và xuyên suốt quá trình cách mạng là sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính dân tộc. Cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp công nhân Việt Nam nhằm bảo đảm vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, lợi ích của giai cấp công nhân đồng thời bảo đảm lợi ích cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Từ đó, sức mạnh dân tộc luôn được thống nhất và là nền tảng vững chắc cho việc thực thi quyền lực chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam. Những thành tựu đạt được trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới đã chứng minh điều đó và khẳng định những giá trị văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa đã được hình thành và củng cố.

Tuy nhiên, quá trình đổi mới đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đang làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp dẫn đến sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính dân tộc trong văn hóa chính trị có những biểu hiện mới đòi hỏi phải được nhận diện và tìm cách giải quyết phù hợp.

Một là, sự xung đột lợi ích giữa một bộ phận trong xã hội với quần chúng nhân dân gây sự lầm tưởng về tính không thống nhất giữa tính giai cấp và tính dân tộc trong văn hóa chính trị.

Ở nước ta, mục tiêu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa là kiên định, không gì có thể làm thay đổi được, song trong thực tế, qua lối sống của một bộ phận xã hội có những biểu hiện phai mờ, chệch hướng con đường lý tưởng đó. Đó là biểu hiện của một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về đạo đức, lối sống; lợi dụng chức quyền để phục vụ lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm. Điều nguy hại là bộ phận cán bộ, đảng viên chính là đại diện cho uy tín, phẩm chất chính trị của đảng cầm quyền, đang làm tổn hại đến thanh danh của Đảng, tổn hại đến lợi ích của nhân dân, của dân tộc, làm giảm, thậm chí là mất lòng tin của người dân. Sự tổn hại đó cũng đang làm méo mó, lệch lạc văn hóa chính trị trên cả hai cấp độ cá nhân và xã hội.

Văn hóa chính trị công dân đang có sự đấu tranh giằng xé giữa một bên là tin tưởng vào lý tưởng cao đẹp của nền chính trị xã hội chủ nghĩa, mặt khác là thiếu lòng tin vào lý tưởng đó trước sự tha hóa về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là trong đó có cán bộ lãnh đạo các cấp. Văn hóa chính trị công dân ấy biểu hiện với nhiều hình thức khác nhau: nếu công dân là người dân thì thể hiện sự bất bình hay thờ ơ chính trị, phai nhạt lý tưởng chính trị, chạy theo lối sống thực dụng thuần túy; với công dân là lãnh đạo thì hình thành văn hóa chính trị - đạo đức giả: nói một đằng, làm một nẻo, lợi dụng chức quyền thu vén lợi ích cá nhân, xâm phạm, tổn hại đến lợi ích chính đáng của các công dân khác, nhất là những công dân là cán bộ cấp dưới hay người dân có mối quan hệ công việc.

Biểu hiện nữa là sự không thống nhất giữa cam kết chính trị với thực tiễn tổ chức thực hiện trong quá trình thực hiện công vụ của các cơ quan chức năng trong bộ máy nhà nước. Chẳng hạn, chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài nhằm khai thác nguồn vốn, công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến của các đối tác có tiềm lực kinh tế, kỹ thuật trên thế giới và phát huy các tiềm năng, thế mạnh nước ta; hay chủ trương thể hiện truyền thống "uống nước, nhớ nguồn" với người có công với cách mạng,… là những cam kết chính trị nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện, một bộ phận cán bộ, đảng viên đã thiếu tinh thần trách nhiệm, chạy theo lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm làm cho những cam kết chính trị đó không được thực hiện một cách đầy đủ, gây nên những hậu quả nặng nề về sự thất thoát tài sản nhà nước, ô nhiễm môi trường,… đặc biệt là gây mất lòng tin trong nhân dân.

Vấn đề ở đây cần được nhận thức đúng đắn rằng: không phải là mâu thuẫn giữa lợi ích giai cấp công nhân với lợi ích dân tộc; mâu thuẫn giữa lợi ích của Đảng cầm quyền với lợi ích của nhân dân, dân tộc mà là sự xung đột lợi ích của bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức, lối sống với lợi ích của giai cấp công nhân, lợi ích của dân tộc.

Hai là, bên cạnh văn hóa chính trị chân chính tồn tại văn hóa chính trị giả hiệu của một bộ phận xã hội đang làm ảnh hưởng đến tính thống nhất giữa tính giai cấp với tính dân tộc trong đời sống chính trị - xã hội.

Ở nước ta, việc bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc đã trở thành nhận thức chung của toàn xã hội. Ngay từ khi chính quyền mới giành được về tay nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở, Đảng ta là đảng cầm quyền mà đã là đảng cầm quyền thì phải thật sự trong sáng, vững mạnh. Người sớm cảnh báo hiện tượng có bộ phận cán bộ, đảng viên quan liêu, vơ vét, đục khoét của công. Người đã viết rất nhiều bài viết phân tích, chỉ ra những biểu hiện sa vào chủ nghĩa cá nhân, sa vào những căn bệnh suy thoái đạo đức, lối sống và yêu cầu phải thường xuyên tiến hành công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, trong đó có công tác giáo dục đảng viên chống lại thói đạo đức giả, nói nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo. Nếu xét ở góc độ văn hóa chính trị thì căn bệnh mà Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo là thói đạo đức giả cũng chính là thứ "văn hóa chính trị giả hiệu" bởi nó liên quan đến việc sử dụng quyền lực chính trị và sự tha hóa quyền lực chính trị.

Quyền lực chính trị có vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, sự tồn tại của nó có hai mặt: một mặt, nó tạo nên sức mạnh thúc đẩy xã hội phát triển theo một định hướng lý tưởng chính trị nhất định; mặt khác, trong quá trình sử dụng quyền lực chính trị luôn tiềm ẩn nguy cơ "tha hóa" quyền lực chính trị bởi những người có cơ hội được nắm giữ biến thành quyền lực riêng của mình. Đó là hai mặt mà bất kỳ thể chế chính trị nào cũng phải tính đến. Để hướng tới lý tưởng chính trị xã hội chủ nghĩa, việc phát huy sức mạnh và phòng chống sự "tha hóa" quyền lực chính trị là vấn đề luôn phải tính đến, thể hiện trình độ văn hóa chính trị ở cả hai cấp độ cá nhân và xã hội, đặc biệt là ở văn hóa cầm quyền.

Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đang diễn ra hiện tượng mâu thuẫn giữa một mặt là tuyên bố chính trị về nêu cao lý tưởng chính trị cao đẹp, tiến bộ nhưng thực tế lại có bộ phận xã hội đang thực hiện đi ngược với lý tưởng đó. Việc xâm phạm lợi ích các giai tầng xã hội, nhất là của đông đảo quần chúng nhân dân diễn ra trong thời gian dài đang tạo nên những hệ lụy tiêu cực trong xây dựng văn hóa chính trị ở nước ta... Ngoài ra còn hiện tượng tiêu cực trong công tác cán bộ ở một số bộ, ngành và địa phương vừa qua cũng cho thấy sự chuyển biến về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên theo hướng xây dựng văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa vẫn rất chậm. Tình trạng "nhờn chủ trương", "nhờn luật" trong Đảng, trong bộ máy công quyền vẫn còn khá phổ biến trong thời gian dài. Từ cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhằm chống lại sự suy thoái đạo đức, lối sống của bộ phận cán bộ, đảng viên bằng giáo dục, tuyên truyền đến việc sử dụng công cụ pháp lý như các Nghị quyết Trung ương Đảng về công tác xây dựng Đảng, Luật Phòng, chống tham nhũng,... nhằm tạo nên cơ chế để "nhốt quyền lực" nhưng vẫn chưa khắc phục đáng kể hiện tượng đạo đức giả, văn hóa chính trị giả hiệu. Sự thiếu tính nêu gương của cán bộ cấp trên, của cơ quan cấp trên vẫn còn tồn tại, như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII khẳng định: "Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền…" đang làm công cuộc xây dựng văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa gặp nhiều khó khăn và phức tạp.

Một số giải pháp góp phần bảo đảm tính thống nhất giữa tính giai cấp và tính dân tộc trong xây dựng văn hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính dân tộc trong văn hóa chính trị ở Việt Nam.

Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính dân tộc trong xây dựng văn hóa chính trị là vô cùng quan trọng để bảo đảm sự đồng thuận trong tư tưởng, thống nhất về hành động bảo vệ những giá trị tốt đẹp của văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa, chống lại những biểu hiện của văn hóa chính trị giả hiệu.

Để nâng cao nhận thức về sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính dân tộc trong văn hóa chính trị đòi hỏi phải thúc đẩy công tác nghiên cứu về văn hóa chính trị trên cả hai phương diện: lý luận và thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận về văn hóa chính trị, làm cơ sở chỉ đạo việc nâng cao trình độ văn hóa chính trị chân chính, tiến bộ trong đội ngũ cán bộ và nhân dân.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về hệ giá trị văn hóa chính trị tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Trong tuyên truyền cần làm rõ tính chất khó khăn, phức tạp của quá trình xây dựng nền văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phân tích những tác động khách quan và chủ quan đến văn hóa chính trị, trong đó nhân tố chủ quan đóng một vai trò vô cùng quan trọng.

Để có nhận thức đúng đắn về một nền văn hóa chính trị tiến bộ đã là một việc khó nhưng việc thực hành nó trong đời sống chính trị lại càng khó hơn. Trước những tác động của kinh tế thị trường, sự cám dỗ của những lợi ích vật chất do quyền lực chính trị mang lại, việc thực hành những chuẩn mực, giá trị đạo đức, văn hóa chính trị là hết sức khó khăn. Vì vậy, đòi hỏi sự đấu tranh kiên trì, kiên quyết của các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, các tổ chức xã hội và của chính mỗi công dân dù đứng ở vị trí nào trong xã hội bằng nhiều biện pháp thiết thực trên cơ sở đó nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của văn hóa chính trị trong hoạt động thực tiễn chính trị.

Thứ hai, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo hành lang pháp lý chặt chẽ "nhốt được quyền lực trong lồng cơ chế".

Ở nước ta, công tác phát triển lý luận về nhà nước pháp quyền đã được quan tâm và đạt được nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền vẫn còn nhiều việc phải làm. Từ lý thuyết vận dụng vào thực tiễn, nhiều chủ trương, chính sách đã bị "bẻ cong". Chủ trương là xây dựng tổ chức đảng các cấp trong sạch, vững mạnh nhưng hiện tượng còn bộ phận cán bộ suy thoái đạo đức, lối sống tồn tại quá lâu trong thực tế đang gây mất lòng tin của nhân dân. Chủ trương học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được đẩy mạnh nhưng thực tế thực hiện lại vẫn còn hiện tượng không làm theo, đi ngược lại, thậm chí nói một đằng làm một nẻo làm nản lòng quần chúng nhân dân. Điều đó đòi hỏi việc hoàn thiện hệ thống pháp luật để xây dựng và thực thi nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là vô cùng cần thiết.

Hiện nay, chủ trương, chính sách, pháp luật ở nước ta là nhất quán và khá đầy đủ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý xã hội về mọi mặt, tuy nhiên vẫn phải tiếp tục bổ sung những chế tài, quy định cụ thể hơn để việc triển khai, tổ chức thực hiện trong thực tiễn. Bên cạnh cơ chế chính sách tăng cường quản lý cán bộ cần có cơ chế chính sách đột phá nâng cao đời sống, cải thiện điều kiện làm việc trên cơ sở phát huy năng lực, sự cống hiến của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Cùng với đó là việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm hiện thực hóa chủ trương, chính sách, pháp luật trong cuộc sống, góp phần xây dựng và phát triển văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, tăng cường thực hành dân chủ, xây dựng môi trường dân chủ thật sự trong tất cả các cơ quan đơn vị, tổ chức và xã hội.

Hiện nay, vấn đề văn hóa chính trị đang đứng trước thách thức của sự tập trung quyền lực ở nhóm người có chức vụ lãnh đạo, quản lý nhưng suy thoái đạo đức, lối sống trong khi đó thiếu đi sự giám sát, phản biện của quần chúng nhân dân. Chỉ có thực hành dân chủ, nâng cao vai trò giám sát, phản biện xã hội của quần chúng nhân dân mới sớm phát hiện được những bất cập, những hiện tượng văn hóa chính trị giả hiệu hiện đang tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, kể cả trong những đơn vị hành chính, sự nghiệp, cơ quan tổ chức và xã hội.

Muốn vậy, phải xây dựng cơ chế, môi trường dân chủ thật sự, có sự bảo đảm của pháp luật, sự tham gia của dư luận xã hội, truyền thông đại chúng; tăng cường rèn luyện năng lực thực hành dân chủ của mọi tầng lớp nhân dân. Tất cả phải hướng tới xây dựng văn hóa chính trị chân chính, tiến bộ; chống lại sự chống phá của các thế lực thù địch nhằm phá hoại thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa do nhân dân ta xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thứ tư, nêu cao tinh thần gương mẫu của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong thực hành văn hóa chính trị.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: "Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền"(1). Văn hóa chính trị phải được biểu hiện đầy đủ, nêu gương trước hết ở các tổ chức đảng, chính quyền các cấp; ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý; cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong bộ máy Nhà nước. Hơn lúc nào hết, việc nêu gương trong thực hành văn hóa chính trị tiến bộ, chân chính phải được coi là một yêu cầu cần thiết, được đẩy mạnh trong toàn hệ thống chính trị và xã hội. Bên cạnh đó, phải cụ thể hóa những hành vi nêu gương và coi đó là tiêu chuẩn cơ bản của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Cùng với hệ thống chế tài nghiêm minh, sự công khai thông tin và việc nhân rộng những tấm gương tốt sẽ tạo sức mạnh và sự lan tỏa trong xây dựng văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa.

Thứ năm, tăng cường công tác giáo dục, nâng cao trình độ văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Cán bộ là gốc của mọi sự thành bại của cách mạng. Việc xây dựng văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay có thể được coi như một cuộc đấu tranh cách mạng khó khăn đòi hỏi phải được tiến hành kiên trì với quyết tâm cao. Để hoàn thành được sứ mệnh đó, công tác giáo dục nâng cao trình độ văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, từ bài học kinh nghiệm về công tác giáo dục tư tưởng chính trị và tình hình diễn biến tư tưởng, phẩm chất chính trị, đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hiện nay, việc xây dựng nội dung giáo dục cần hết sức thiết thực, cụ thể với phương pháp giáo dục phù hợp, có tính ứng dụng cao.

Như vậy, xây dựng văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang trở thành vấn đề cấp thiết nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng và cải cách hoạt động bộ máy Nhà nước; tạo nên sự đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh chính trị của cả dân tộc trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được mục tiêu đó đòi hỏi phải có sự tham gia với quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là sự thay đổi mạnh mẽ và sâu sắc về nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức về văn hóa chính trị./.

TS. Hoàng Thị Hương - Đại học Nội vụ Hà Nội

--------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1, tr.263

Theo: tapchicongsan.org.vn