Đức phật trải qua bao nhiêu kiếp
GN - Ngày nay, địa danh Lâm-tỳ-ni (Lumbini) ở Ấn Độ không xa lạ với tín đồ Phật giáo trên toàn thế giới. Nơi đây, năm 624 trước Tây lịch, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã ra đời. Show Quảng cáo Tin liên quan
Với niềm tin nơi thuyết luân hồi của Phật giáo, cái ngày trăng tròn tháng Tư đó cũng chỉ là một sát-na trong vô vàn sát-na của đời đời kiếp kiếp tựu thành. Trong Bản sinh kinh (thuộc kinh Tiểu bộ), ta được nghe biết bao câu chuyện về tiền thân của Đức Phật, người đã trải qua vô lượng kiếp trước khi hội đủ duyên để Đản sinh nơi một khu vườn nép mình cạnh Himalaya để rồi từ đây, toàn bộ câu chuyện lịch sử và đức tin bắt đầu. Những câu chuyện về tiền thân của Phật là một bài học, từ hóa thân này qua hóa thân khác, trong hình tướng con người hay hình tướng muôn loài, mỗi câu chuyện trình bày duyên và nghiệp, mỗi câu chuyện giúp hé mở vì sao sẽ có một Tất-đạt-đa Cồ-đàm và hài nhi Tất-đạt-đa, về sau sẽ trở thành Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bậc Đại giác vô thượng. Nhiều độc giả của thế kỷ công nghệ, tiếp xúc với các câu chuyện đẫm màu huyền thoại của Phật giáo với nỗi hoài nghi. Nhưng trên thế giới này, kể cả những câu chuyện tưởng như hoang đường nhất cũng ẩn chứa ít nhiều sự thật. Sự thật ở đây, phải chăng, ta có thể nhìn nhận tất cả những chuyện kể, những phép màu kia chính là dụ ngôn về đời sống thường hằng. Chúng ta hôm nay là sự tiếp nối của ngàn xưa và sẽ là điểm bắt đầu cho ngàn sau. Không cần trải qua muôn ngàn kiếp, chính kiếp này, chẳng phải có những khoảng thời gian ta thấy mình như “chết đi sống lại”, bản thân có sự biến chuyển như được tái sinh với mảnh linh hồn thay đổi. Trong đại dịch vừa qua, ta càng thấu hiểu lẽ vô thường. Hơn hai năm, nhân loại trải qua cơn tai biến, đau thương, mất mát không thể vãn hồi. Cũng chính trong giai đoạn khủng hoảng đó, tâm Bồ-tát trong nhiều người được thức tỉnh. Họ sẵn sàng lao vào nguy hiểm để phục vụ cộng đồng, sẵn sàng dành sức người sức của, không quản ngày đêm để lo cho những số phận đang nguy khốn. Trong những ngày tháng ấy, ta như được chứng kiến muôn vàn vị Bồ-tát sinh ra hàng ngày, những người mà nhờ tấm lòng của họ, biết bao nhiêu người được cứu sống, biết bao hoàn cảnh được chăm sóc. Còn những người chẳng may nhiễm bệnh nhưng phục hồi khoẻ mạnh, bản thân trải nghiệm đó chẳng phải giống như tái sinh hay sao? 2.500 năm trước em bé trượt ra khỏi mẹ “Một làn sóng thủy triều không có gió” em bé thở hơi thở đầu tiên của mình mẹ trút hơi thở cuối cùng Hơi thở vô tận của Đức Phật vươn về phía trước qua thời gian. Đoạn thơ trên mở đầu bài thơ viết nhân ngày Phật đản sinh năm 2020 của Đạo sư Gretchen Neuwald. Dù trong lịch sử, bảy ngày sau khi hạ sinh Thái tử Tất-đạt-đa, Hoàng hậu Ma-da qua đời. Tuy nhiên, Neuwald đã nghệ thuật hóa khoảnh khắc này bằng cách xóa nhòa thời gian, đồng nhất thời gian Đức Phật ra đời với thời gian Hoàng hậu Ma-da mạng chung. Hơi thở đầu tiên của đứa trẻ và hơi thở cuối cùng của người mẹ, trong sinh đã có diệt hay trong diệt đã có sinh, nó là một hơi thở tiếp nối, vô tận và vượt thời gian. Biết bao nhiều người trong lúc đấu tranh với bệnh tật hay nạn tai, đã nguyện sau khi qua khỏi sẽ sống khác đi, sẽ sống tốt hơn. Trong những giai đoạn như vậy, ta thấy như con người cũ trong mình đã chết để tái sinh thành một con người mới. Một hơi thở mọi hơi thở Ra vào ra vào ra Đây có phải là sống không? Đây có phải là chết không? Cái này là cái gì? Mòng biển kêu gào eee eee eee. Gretchen Neuwald khép lại bài thơ bằng tiếng kêu của chim mòng biển, như một dư vang, kéo dài, kéo dài, như hơi thở, như đời người, như sinh ra, như mất đi, có thể qua đời đời kiếp kiếp mà cũng chỉ như gói gọn trong tiếng kêu của chim mòng biển. Nhân ngày Phật đản, theo một cách hiểu trong niềm tin Phật giáo, sinh ra cũng có nghĩa là tái sinh. Và chúng ta hôm nay, những con người hiện đại, đối diện với bao biến cố của đời sống, cũng đang tái sinh hàng ngày. Toàn thể nhân loại đang hồi sinh sau đại dịch, chập chững bước đi trong một thế giới hậu thảm họa như đứa trẻ mới ra đời hôm qua. Dưới đôi mắt từ bi của Đức Phật, ta xót thương cho những người đã mất, và cũng hoan hỷ đón những sinh linh mới ra đời. Chúng sẽ tiếp bước chúng ta, học hỏi từ những sai lầm của chúng ta, tái sinh từ thế giới chết chóc của chúng ta. Vì thế mà chúng ta cần đức tin, để tiếp tục học hỏi, để tiếp tục sửa chữa. Sửa chữa thế giới này và sửa chữa chính bản thân chúng ta. - Cũng vậy, này Bà-la-môn, ông nhục mạ chúng tôi, những người không nhục mạ (ông), ông tức giận với chúng tôi, những người không tức giận (ông), ông cãi vã với chúng tôi, những người không cãi vã gì (với ông). Tất cả những gì ông đã nói thì chúng tôi không nhận lấy. Tất cả là của ông, này Bà-la-môn, ông nhận lại; tất cả là thuộc về ông.
Bằng sự nhẫn nhục, trí tuệ và lòng từ tâm, Đức Phật đã khuyên dạy chúng ta thay đổi cách nghĩ về những “món quà” bất nhã và sự chọc tức đó đến với chúng ta, thay vì chúng ta chỉ lập tức phản ứng lại bằng sự tức giận và thù ghét theo cái thói quen đầy tính “chiến đấu” của chúng ta.
Chướng ngại thứ 2
- Sa-môn Cù-đàm thua tôi chưa?
Đức Phật đáp:
Kẻ hơn thì thêm oán, Người thua ngủ chẳng yên, Hơn thua hai đều xả, Ấy được an ổn ngủ.
Như vậy sở dĩ chúng ta mất ăn mất ngủ là tại điều gì? Tại những hơn thua, được mất! Khi được cũng ngủ không yên, mất cũng ngủ không xong. Hơn người, khi trở về vẫn còn hằn học nhớ mình nói câu đó hay, hành động đó giỏi, còn nếu thấy thua thì bực tức ngủ không được.
Chướng ngại thứ 3
Thời điểm Đức Phật mới thành đạo, Ngài vẫn còn trẻ, vô tình đến một vùng có một người Bà-la-môn giàu có lại giỏi về tướng số. Người này nhận thấy Ngài có 32 tướng tốt nên trầm trồ khen, nếu ở thế gian sẽ làm vua Chuyển luân. Xem thêm: Biết một ngày của Đức Phật như thế nào? Bạn sẽ bất ngờ vì Ngài ngủ quá ít
Lần này đức Phật đi có ngài A-nan đi theo. Hai thầy trò vừa vào xứ đó, bỗng dưng một nhóm người cả nam lẫn nữ xông ra chửi, đua nhau chửi. Đức Phật vẫn thản nhiên như không có việc gì, nhưng ngài A-nan thì chịu không nổi nên mới thưa:
- Bạch Thế Tôn, thôi chúng ta đi chỗ khác.
Đức Phật hỏi:
- Đi đâu A-nan?
- Bạch Thế Tôn, chúng ta qua nước Đề-xá.
- Nếu đến nước đó mà dân chúng cũng cư xử giống như dân ở đây thì ông nghĩ sao?
- Bạch Thế Tôn, chúng ta qua thành Hoa Thị.
- Nếu đến đấy mà dân chúng cũng cư xử như thế này thì ông nghĩ sao?
- Bạch Thế Tôn, chúng ta đến nơi nào mà người ta không bạc đãi chúng ta như ở đây, như là về thành Tỳ-xá-ly hay là thành Vương Xá chẳng hạn.
Đức Phật liền đặt câu hỏi:
- Tại sao dân chúng thành Vương xá, thành Tỳ-xá-ly lại ưu đãi chúng ta?
Ngài A-nan thưa:
- Bạch Thế Tôn, vì dân chúng ở đó đã từng nghe Thế Tôn dạy, họ biết rõ chánh pháp và họ có trí tuệ phân biệt được hành động nào là thiện, hành động nào là tội lỗi, do đó họ rất chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, thôi chúng ta về đó đi.
Đức Phật liền hỏi:
- A-nan, giả sử có người thầy thuốc giỏi bậc nhất có thể đăng bảng trước cổng rằng: ở đây chỉ trị bệnh cho những người bệnh nhẹ và không bệnh, còn ai bệnh nặng xin mời đi nơi khác, có như vậy không A-nan?
- Bạch Thế Tôn, không.
- Tại sao?
- Vì thầy thuốc hay cần trị cho những người bệnh nặng, nếu thầy thuốc có lương tâm mà bệnh nặng không trị giùm, chỉ trị bệnh nhẹ và không bệnh thì thật là vô lý.
- Này A-nan vì sao dân chúng ở xứ này lại đối đãi tệ bạc với chúng ta như vậy?
- Bạch Thế Tôn, vì ở đây họ chưa từng nghe Phật thuyết pháp, họ không biết hành động nào là thiện, hành động nào là ác, nên họ mới xử tệ với chúng ta.
- A-nan, Như Lai ra đời vì làm lợi ích cho mọi người, vì cứu khổ chúng sanh, cũng như người thầy thuốc hay là cốt để trị những người đang đau khổ vì bệnh trầm trọng. Dân chúng ở đây như những người bệnh nặng, Như Lai cần phải có mặt để giáo hoá họ, còn dân chúng ở thành Tỳ-xá-ly hay Vương xá giống như những người bệnh nhẹ không cần đến Thế Tôn, chỉ những đệ tử của Thế Tôn cũng đủ để giáo hóa họ rồi; nơi này nếu Thế Tôn không đích thân đến thì ai dám đến đây giáo hóa?
Nghe như thế ngài A-nan liền thưa:
- Bạch Thế Tôn, ở đây đâu có ai cần nghe Thế Tôn giảng, họ xử sự quá tệ bạc thì làm sao giáo hóa?
Đức Phật giải thích thêm:
- Ví như người bệnh nặng, thân thể và tâm hồn họ bị giày xéo đau khổ nên tư cách và ngôn ngữ họ không bình thường, vì thế họ có những lời nói xúc chạm đến thầy thuốc, nếu người thầy thuốc thương bệnh nhân như con thì phải bỏ qua những điều đó để trị lành bệnh cho họ. Cũng như thế, dân chúng đây là những người bệnh nặng nên họ có những thái độ bất thường, chúng ta nên giáo hóa họ chớ không nên bỏ họ.
Nghe Phật nói đến đó những người côn đồ liền thức tỉnh, họ đồng thưa:
- Bạch Thế Tôn, chúng tôi xin lỗi Ngài, chúng tôi thật là người bệnh nặng, mong Ngài ở lại đây giáo hóa chúng tôi.
Đức Phật và ngài A-nan ở lại, chỉ hơn một tuần lễ họ đã qui y rất đông, không kém thành Tỳ-xá-ly hay Vương xá bao nhiêu.
Chướng ngại thứ 4
Những kẻ đối đầu với Đức Phật đã cho tiền một kỹ nữ tên là Cinca đến chửi bới và làm nhục Phật. Cinca cột một bó đũa bên dưới lớp áo dày và giả như mình đang mang bầu. Khi Phật đang thuyết giảng cho hàng trăm người, cô ta đến đến trước mặt và chửi Phật là người giả dạng thánh nhân, và vu oan cho Phật đã làm cho cô ta có bầu.
Chướng ngại thứ 5
Một kiếp nạn của Đức Phật khác của Ngài đó là Khi đức Phật về tinh xá Trúc Lâm, tất cả vua quan và dân chúng đều tới để nghe Ngài giảng dạy mỗi ngày, do đó có một số người Bà-la-môn theo qui y với đức Phật, vì thế có một người Bà-la-môn tên là Tôn-đà-lợi rất tức giận, muốn hại Phật.
Trong trường hợp này không có gì minh chứng được nên đức Phật chỉ lặng thinh. Tinh xá Trúc Lâm thuộc nước Ma-kiệt-đà, vua nước Ma-kiệt-đà rất mến Phật nên ông cho người điều tra thật kỹ, kết quả mới biết chính ông Bà-la-môn giết con ông và đem chôn trong tinh xá, từ đó mới minh oan cho đức Phật. Chướng ngại thứ 6
Devadatta là em chú bác của Phật, ông xuất gia và tu chứng được Ngũ thông. Khi chứng được Ngũ thông rồi, ông mới dùng thần thông cảm hóa Thái tử A-xà-thế. Vì lòng tham muốn lãnh đạo và thay đổi Tăng đoàn, nên ông sinh lòng thù hận và muốn giết Phật. Ông mới xui Thái tử A-xà-thế cướp ngôi vua cha rồi thả voi say giết Phật, nhưng không được. Ông cho voi dữ uống rượu và canh đúng lúc, đúng nơi Phật đang đi qua, ông thả voi điên ra để giết Phật. Mọi người đều bỏ chạy, và ai cũng kêu Phật hãy bỏ chạy khỏi voi dữ. Ngài Ananda cũng bước lên đứng ngăn voi dữ tấn công Phật, nhưng Phật bảo ngài tránh ra, vì sức người như ngài cũng không ngăn được voi dữ.
Khi voi dữ đến gần Phật, nó chồm lên, hai tai dựng đứng trong cơn say điên. Đức Phật chỉ đứng im và phóng những ý nghĩ từ bi về phía con voi. Con voi ngừng lại, Phật đưa hai bàn tay ngửa về phía con voi và truyền tâm từ bi sang nó. Con voi phủ phục quỳ xuống dưới chân Phật, ngoan ngoãn như một con cừu. Lòng từ bi đã chinh phục được sự hung dữ dã man của một con vật đang trong cơn điên tiết. Hại Ngài không được, cuối cùng một hôm đức Phật đi ngang chân núi, ông ở trên núi xô đá lăn xuống, đức Phật bị dập một ngón chân nên ông phạm tội “xúc Phật thân huyết”. Lại thêm những chuyện như ông rủ chư Tăng bỏ đoàn đi theo ông... nghĩa là ông tạo sự rối loạn, trong chúng lúc đó không còn yên ổn được, sau cùng phải nhờ hai ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đi giải thích cho chúng, họ mới trở về với Phật. Với những kiếp nạn của Đức Phật phải đối mặt, Ngài không hề run sợ mà nhìn nhận chúng là cơ hội để mình tu hành nhanh thành chánh quả. Kinh Pháp Hoa, Phật kể rằng: Devadatta không những một đời này mà nhiều đời trước Phật ở nơi nào hành hạnh Bồ-tát ông cũng đều tới phá Phật. Phật bảo: Nhờ Devadatta mà ta chóng thành Phật, rồi Ngài thọ ký Đề-bà-đạt-đa sau sẽ thành Phật.
Devadatta không phải là người thường, đó là một vị đại Bồ-tát đang ứng dụng nghịch hạnh để giúp Bồ-tát chóng thành Phật. Chỉ có con mắt Phật mới thấu tỏ điều đó. Chúng ta tu mà ai chửi chúng ta nhiều, đó là đại Bồ-tát làm nghịch hạnh để giúp chúng ta mau đạt đạo, dù phải xuống địa ngục. Đại Bồ-tát thì đúng ra chúng ta phải lễ bái chớ đừng nói mang ơn thôi.
Nghĩa là chúng ta phải xem lời nói ác của người là công đức cho chúng ta. Người ta chê chúng ta, chửi chúng ta đó là chúng ta tăng trưởng công đức chớ không có mất.
Chướng ngại thứ 7
Cuộc đời Đức Phật còn cho thấy rằng, Tỳ kheo Thiện tinh, con Phật (con của một vị thứ phi, không phải con bà Da-du-đà-la) cũng theo Phật xuất gia. Vị này rất thông minh, thuộc làu mười hai bộ Kinh, tu chứng được Tứ thiền, nhưng ông lại chê đức Phật, chê giáo lý của Phật không hay, không đến cứu kính, ông bác cả nhân quả, cả Niết-bàn. Nhiều lần đức Phật khuyên, ông vẫn đinh ninh như vậy.
Đến người thứ ba là Tỳ kheo Thiện túc, theo Phật xuất gia một thời gian, một hôm ông đến Phạm chí Dà-bà nói lỗi đức Phật. Ông nói: Đại sư, tôi không theo ngài Cù-đàm nữa, vì Ngài không nói cho tôi nghe những điều tôi cần nghe và Ngài cũng không hiện thần thông cho tôi thấy, vì thế tôi xin theo Đại sư.
Thêm một người nữa là Tỳ kheo Man đồng tử, ông xuất gia theo Phật một thời gian rồi yêu cầu Phật phải khẳng định thế giới này là thường hay vô thường, sau khi nhập Niết-bàn rồi còn hay hết... Phật phải giải thích điều đó rõ ràng cho ông nghe, ông mới tu theo Phật, nếu Phật không giải thích ông sẽ hoàn tục. Đức Phật mới quở ông là ngu si và đức Phật dùng thí dụ mũi tên bắn vào người (kinh Tiễn Dụ), đó là trường hợp thứ tư.
Đến trường hợp thứ năm là hai nhóm Tỳ-kheo ở nước Câu-xá-di tranh đấu nhau, khi đó Phật dùng bài kệ khuyên:
Nếu dùng tranh dứt tranh, Rốt cùng không thấy dứt, Chỉ nhẫn hay dứt tranh, Pháp ấy đáng tôn quí.
Ý của người là: Nếu dùng tranh đấu để dứt tranh đấu, rốt cuộc không thể dứt được, chỉ nhẫn nhục mới hay dứt được tranh đấu, pháp đó là pháp tôn quí nhất. Chướng ngại thứ 8Bữa ăn cuối cùng của Đức Phật là CANH NẤM ĐỘC, trong một lần cúng dường đặc biệt. Ngài không coi đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của mình.
Chuyện kể lại rằng, Thuần Đà là 1 người thợ rèn sống gần rừng Sala kia, hay tin Đức Phật sắp tới nơi đây để nhập Niết bàn, là 1 người Phật tử thành tâm, Thuần Đà đảnh lễ xin được cúng dường Phật cùng chư tăng. Thiện tâm của Thuần Đà được Đức Phật chứng giám và hoan hỉ nhận lời.
Ngày hôm sau, Thế Tôn và chư tăng y hẹn đến nhà người thợ rèn thọ trai. Thuần Đà trước đó đã tự tay vào rừng hái nấm để nấu canh, tự tay dâng lên cúng dường Đức Phật.
Bát canh nấm vô cùng thơm ngon, nhưng Đức Phật dùng qua lại nói trong canh có nấm cực độc, lệnh cho tôn giả A Nan không được cho bất cứ ai dùng mà lập tức đem chôn.
Người thợ rèn chất phác nghe thế trong lòng kinh hãi vô cùng, vừa sợ hãi vừa ân hận, chỉ vì tấm lòng hướng Phật, muốn cúng dường tạo phước báu cho đời sau mà không ngờ lại vô tình mang tội lớn với Phật.
Đức Phật là người duy nhất ăn phải bát canh độc đó, song Ngài chẳng hề hoảng loạn mà vẫn bình tâm, gọi Thuần Đà đến răn dạy, dặn người thợ rèn chớ nên than khóc hay hối hận vì việc làm của mình bởi đó vốn không phải việc gì sai trái.
Bát canh nấm độc đó đã khiến cho sức khỏe của Đức Phật suy giảm nhanh chóng. Ngài không thể tự đi mà cần chư tăng dìu đỡ, mau chóng đến rừng Sa la để kịp ngày nhập diệt như đã định. |